Hiện các cảng cạn được công bố đưa vào khai thác mới chỉ chiếm khoảng 15% tổng số cảng cạn được quy hoạch. Đặt mục tiêu hàng hoá xuất nhập khẩu bằng container đến năm 2030 lên tới gần 16 triệu Teu/năm, Cục Hàng hải dự kiến nhu cầu đầu tư hệ thống cảng cạn lên tới 34.000 tỷ đồng…
Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông vận tải) đang lấy ý kiến dự thảo Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Nhìn lại gần 5 năm thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2072/QĐ-TTg ngày 22/12/2017, tính đến thời điểm hiện nay, cả nước đã đầu tư, công bố và đưa vào khai thác 10 cảng cạn; bên cạnh đó còn có 6 cảng thông quan nội địa – ICD đang hoạt động thuộc các vị trí được quy hoạch cảng cạn nhưng các chủ đầu tư chưa thực hiện thủ tục chuyển đổi thành cảng cạn theo quy định, chiếm 23,9% số cảng cạn được quy hoạch.
Các cảng cạn, ICD này phân bổ tập trung trên 5 hàng lang và khu vực kinh tế trong tổng số 15 hành lang và khu vực kinh tế có quy hoạch cảng cạn, trong đó hành lang kinh tế ven biển ở miền Bắc đã hình thành 4/5 cảng cạn được quy hoạch.
Cụ thể, khu vực phía Bắc gồm 9 cảng cạn là: Cảng cạn Hải Linh, Cảng Cạn Móng Cái, Cảng cạn Tân Cảng Đình Vũ, Cảng cạn Đình Vũ – Quảng Bình, Cảng Cạn Hoàng Thành, Cảng Cạn Tân cảng Hà Nam, Cảng Cạn Tân cảng Quế Võ, Cảng cạn Phúc Lộc, Cảng cạn Long Biên.
Khu vực Miền trung chưa có cảng cạn được công bố đưa vào khai thác.
Khu vực Miền Nam công bố và đưa vào khai thác 1 cảng cạn là Cảng cạn Tân cảng Nhơn Trạch.
Tổng khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu bằng container thông qua các cảng cạn và ICD đang hoạt động hiện nay khoảng 4,2 triệu TEU/năm, trong đó 90% hàng hóa thông qua các cảng thông quan nội địa ICD.
Cùng với đó, tỷ lệ sử dụng cảng cạn, cảng thông quan nội địa phía Bắc còn thấp, do các cảng cạn miền Bắc chưa kết nối với cảng biển rõ rệt như đối với cảng cạn khu vực miền Nam khi thị trường vận tải container đường biển chỉ bằng khoảng 30% so với miền Nam.
Ngoài ra, cảng biển khu vực miền Bắc không xảy ra ùn tắc thường xuyên. Vì vậy hàng hóa không bắt buộc phải trung chuyển qua cảng cạn để đến cảng biển như miền Nam.
Cũng theo Cục Hàng hải, hiện còn 26 cảng cạn chưa triển khai đầu tư gồm, chiếm 38,8% số cảng cạn được quy hoạch.
“Đối với các cảng cạn khu vực miền Trung, việc chậm triển khai đầu tư theo quy hoạch chủ yếu là do nhu cầu còn thấp, chưa hấp dẫn nhà đầu tư. Cùng với đó, các cảng cạn quy hoạch gắn với đường sắt phụ thuộc hoàn toàn vào tiến độ các dự án đường sắt mới theo quy hoạch chuyên ngành”, Cục Hàng hải đánh giá.
Tại dự thảo Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 – 2030, Cục Hàng hải đề ra mục tiêu từng bước hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn trên phạm vi cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; tổ chức vận tải container một cách hợp lý nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu hàng tại cảng biển, đảm bảo an toàn hàng hóa; góp phần giảm ùn tắc giao thông, đặ biệt ở các đô thị lớn và khu vực có cảng biển lớn.
Phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics.
Theo đó, đến năm 2025, phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng 20 – 30% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu với tổng công suất khoảng 6 – 8,7 triệu Teu/năm. Trong đó, miền Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 2,2 – 3 triệu Teu/năm; miền Trung – Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 0,24 – 0,37 triệu Teu/năm; miền Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 3,5 – 5,3 triệu Teu/năm.
Đến năm 2030, phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng 25 – 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải. Hình thành các cảng cạn, cụm cảng cạn với tổng công suất khoảng 11,6 – 15,7 triệu Teu/năm.
Trong đó, miền Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 4,2 – 5,5 triệu Teu/năm; miền Trung – Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 0,66 – 0,95 triệu Teu/năm; miền Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng 6,8 – 9,3 triệu Teu/năm.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cảng cạn giai đoạn 2022 – 2025 cần khoảng 9,5 – 15,3 nghìn tỷ đồng, giai đoạn 2026 – 2030 cần khoảng 15,9 – 18,7 nghìn tỷ đồng.
Cục Hàng hải cho biết sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng cạn trên các hành lang vận tải kết nối với các cửa khẩu cảng biển lớn ở khu vực phía Bắc (cảng Hải Phòng) và khu vực phía Nam (cảng TP. Hồ Chí Minh, Cái Mép – Thị Vải), các cảng cạn gắn với các hành lang vận tải qua biên giới; ưu tiên đầu tư cảng cạn có vị trí kết nối được với hai phương thức vận tải, các vị trí gắn liền hoặ nằm gần các cụm khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung.